A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kĩ năng phát âm chuẩn

BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

PHÁT ÂM CHUẨN CÁC PHỤ ÂM ĐẦU L- N

 

A. Mục tiêu chuyên đề.

 

  1. Nắm vững cách phát âm chuẩn 2 phụ âm đầu của Tiếng Việt là L/N
  2. Cán bộ quản lý, GV và HS có ý thức rèn luyện kiên trì, thường xuyên, liên tục và thành phong trào đều khắp để có kỹ năng phát âm chuẩn hai phụ âm này trong giảng dạy, học tập và giao tiếp.
  3. Nhân rộng ý thức rèn luyện phát âm chuẩn L/N, để tiến tới người Hưng Yên không phát âm lệch chuẩn L/N.

B. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trong giao tiếp bằng ngôn ngữ văn hoá ở trường tiểu học Hưng Yên.

 

1. Cơ sở lý luận của giao tiếp bằng ngôn ngữ văn hoá.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong dịp nói chuyện với Đại hội các nhà báo năm 1962 rằng: “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp...”

2. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng hết sức chú ý đến việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Thủ tướng đã chỉ rất rõ ngành Giáo dục và Nhà trường phải lo, nhất là nhà trường phổ thông: “ Đúng vậy, trường học nhất là nhà trường phổ thông, nói chung các loại trường khác là cái lò tốt để rèn luyện con người Việt Nam mới XHCN về mọi mặt, ở đây là nói về viết tốt, nói tốt. Đây không chỉ là vấn đề ngôn ngữ, đây còn là vấn đề tư duy, vấn đề phong cách.”

3. Có ba đặc trưng cơ bản như là ba tiêu chuẩn cần và đủ cho một lời nói tốt. Đó là tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ.

4. Các nguyên tắc dựa vào quy luật chung của việc sử dụng ngôn ngữ.

a. Nguyên tắc chú ý đến mặt vật chất của ngôn ngữ, đến sự phát triển thể chất của các bộ phận cơ quan cấu âm.

b. Nguyên tắc thông hiểu các ý nghĩa ngôn ngữ và sự phát triển các kĩ năng từ vựng và ngữ pháp.

c. Nguyên tắc đánh giá tính biểu cảm của lời nói.

d. Nguyên tắc phát triển cảm quan ngôn ngữ trong sự nhạy cảm ngôn ngữ.

e. Trong lịch sử phát triển của dân tộcViệt Nam, ông cha ta cũng đã đặt ra yêu cầu giao tiếp “ cho vừa lòng nhau”, nói về sự thuyết phục, truyền cảm và thẩm mĩ.

g. Thực tiễn giao tiếp trong nhà trường Tiểu học đòi hỏi có kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ tốt.

Yêu cầu mục tiêu, nội dung giảng dạy, nghe, nói, đọc, viết tốt để: Giao tiếp có hiệu quả:

+ Truyền đạt thông tin, tình cảm đúng, hay.

+ Lĩnh hội thông tin chính xác.

Nghe, nói, đọc, viết tốt là chìa khoá để học tốt các môn học: Toán, TN và XH, Mỹ thuật, Âm nhạc, Thể dục, ...

Nghe, nói, đọc, viết tốt là một kĩ năng sống cơ bản của con người Việt Nam hiện đại

Thực tế GV, HS và cán bộ quản lý giáo dục và nhân dân địa phương của Hưng Yên còn nhiều người nghe, nói, đọc, viết chưa chuẩn, trước hết là nói, đọc chưa chuẩn 2 phụ âm đầu Tiếng Việt L và N.

Vậy vấn đề đặt ra cần thiết và nhất thiết phải sửa lỗi phái âm lệch chuẩn hai phụ âm đầu L và N trong Tiếng Việt.

Tìm hiểu nguyên nhân phát âm lệch chuẩn N/L:

Do ảnh hưởng của môi trường giao tiếp.

Do ý thức rèn luyện.

Do cấu tạo bộ máy phát âm.

Khảo sát thực trạng phát âm lệch chuẩn N/L.

Lỗi phát âm được chia thành 3 loại phổ biến như sau:

+ Phát âm lẫn lộn giữa L và N ( lúc phát âm L thành N và ngược lại )

+ Chuyển thành một cách phát âm duy nhất ( hoặc chỉ phát âm N, hoặc chỉ phát âm L ).

+ Loại thứ ba, xảy ra với cả những người đã có ý thức phát âm đúng nhưng do câu, từ có chứa nhiều tiếng có phụ âm đầu L và N xen lẫn nhau thì khi phát âm, phụ âm đầu của tiếng thứ hai sẽ thường bị phát âm lẫn với phụ âm đầu của tiếng thứ nhất.

C. Các biện pháp sửa lỗi phát âm.

Nắm lại phương thức phát âm và vị trí phát âm của các phụ âm đầu Tiếng Việt, trước hết là hai âm vị N và L.

1. Bộ máy phát âm: ( Xem phụ lục )

2. Cách phát âm:

Là xét luồng hơi đi ra từ phổi qua các khoang miệng, khoang mũi như thế nào? ( Bị cản hay không bị cản, bị cản như thế nào?... )

Căn cứ vào phương thức phát âm có 2 loại âm : Nguyên âm và phụ âm

Trong Tiếng Việt có hai loại phụ âm là phụ âm tắc và phụ âm sát.

Phụ âm tắc là phụ âm mà khi phát âm luồng hơi từ phổi đi qua các khoang bị cản hoàn toàn ở một vị trí nào đó ( Phụ âm N thuộc nhóm này ).

Phụ âm xát là phụ âm mà khi phát âm luồng hơi từ phổi đi qua các khoang phát âm không bị cản hoàn toàn, có một khe hở nhỏ ở một vị trí nào đó để luồng hơi đi qua một cách dễ dàng phụ âm tắc: Ph, V, S... phụ âm đầu L thuộc nhóm này.

3. Vị trí phát âm:

Là điểm tạo nên âm thuộc bộ máy phát âm khi phát âm. Có các vị trí phát âm như sau:Môi- môi, môi-răng, đầu lưỡi- răng, đầu lưỡi- quặt, mặt lưỡi, cuối lưỡi, thanh hầu.

4. Về cách phát âm và vị trí phát âm của /n/- N và /l/- L:

+ /n/ là phụ âm tắc, vang, đầu lưỡi răng.

Trước khi phát âm, đầu lưỡi đặt ở mặt sau của răng làm điểm cản hoàn toàn luồng hơi đi ra từ phổi qua khoang miệng, sau bật ra, lưỡi thẳng, đầu lưỡi hơi tụt lại, tạo thành âm : Nờ ( trong quả na, nóng bức, hôm nay,...)

+ /l/ là phụ âm xát, vang bên, đầu lưỡi-quặt.

Trước khi phát âm, đầu lưỡi đặt ở vị trí lợi hàm trên làm điểm cản một phần luồng hơi đi ra từ phổi qua khoang miệng, thoát ra hai bên cạnh của lưỡi, đầu lưỡi cong lên, lưỡi chuyển động theo chiều đi xuống tạo thành âm : Lờ ( trong la đà, lóng lánh, lay động, ... )

5. Các biện pháp sửa lỗi phát âm phụ âm đầu L-N.

a. Luyện phát âm đúng các âm L- N:

Mục đích luyện phát âm là để cho bộ máy phát âm hoạt động thuần thục, nhất là luyện đầu lưỡi thẳng khi phát âm N (nờ) và cong khi phát âm L (lờ) cho quen, mềm mại, linh hoạt.

* Cách luyện:

+ Luyện phát từng âm, nhiều lần, nhiều lúc, nhiều ngày

+ Đối với HS, luyện kĩ ở lớp 1 trong giờ Âm Vần. Các lớp khác tranh thủ ít phút cuối buổi học hằng ngày dành cho những HS chưa phát âm được L- N.

b. Luyện phát âm các tiếng, từ có phụ âm đầu L, N kết hợp với tìm hiểu nghĩa của từ bằng cách tra Từ điển Tiếng Việt.

Mục đích rèn luyện như ở phát âm N, L nhưng cao hơn là gắn với nghĩa của từ. Ơ bước này đã gắn việc phát âm với ghi nhớ lô- gic, ghi nhớ âm với biểu hiện nội dung của âm nhằm khác sâu trí nhớ về âm – nghĩa, điều kiện của phát âm chuẩn một cách tự động.

* Cách luyện:

+ Mở Từ điển Tiếng Việt đọc lần lượt các từ của mục từ có phụ âm đầu N, L. Đọc kết hợp xem nghĩa từ, từ loại của từ.

+ Đọc mục từ có phụ âm nào trước cũng được.

+ Đọc có so sánh nghĩa của những từ có phụ âm đầu N, L mà vần giống nhau.

Ví dụ: La (nốt nhạc)- Na(loại cây ăn quả)...

Lo(trạng thái tâm lí lo lắng điều gì đó)- No(cảm giác trong ăn uống)...

Lông(bộ phận mọc trên da động vật, mềm)- Nông(độ đo theo chiều thẳng đứng từ mặt xuống đáy)...

+ Nhớ nghĩa viết, tạo câu có nghĩa và nhẩm đọc.

+ Phối hợp luyện phát âm đúng các tiếng, từ có phụ âm đầu L, N trong giờ dạy tất cả các môn học.

c. Luyện đọc các câu, đoạn văn thơ có các từ ngữ có phụ âm đầu L, N.

* Mục đích: Để nhớ phát âm và từ ngữ mang âm được phát gắn với nghĩa đi vào hoạt động giao tiếp bằng văn tự(chữ viết). Lúc này chữ viết nhắc nhớ lại âm và bật ra âm đúng.

* Cách đọc và luyện:

+ Chọn câu văn, thơ, đoạn văn có nghĩa hấp dẫn, hay, vui vẻ, hài hước:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.

(Truyện Kiều- Nguyễn Du)

Cối xay tre, nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.

(Cây treViệt Nam- Thép

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.

(Ca dao)

+ Đọc nhiều lần, thuộc lòng càng tốt để nhẩm đọc bất cứ lúc nào.

+ Chọn câu dễ(ít từ có phụ âm đầu N, L) đọc trước, câu khó(câu có nhiều phụ âm đầu là N, L) đọc sau.

+Đọc câu tốt rồi thì chuyển sang đọc đoạn văn thơ, đọc toàn bài.

+ GV và HS có ý thức rèn luyện đọc đúng ở tất cả các bộ môn dạy và học trong chương trình Tiểu học. Giáo viên luôn có ý thức đọc đúng và chú ý rèn HS đọc đúng, sửa ngay lỗi phát âm khi các em mắc.

d. Luyện phát âm L, N qua các câu chuyện có nhiều từ ngữ chứa phụ âm đầu L, N.

* Mục đích:Luyện phát âm trong hoạt động nói, một hoạt động đòi hỏi nhớ âm- nghĩa đã cao hơn- nhớ tự động và phát âm chuẩn tự động, không có văn tự kích thích.

* Cách kể câu chuyện:

+ Chọn câu chuyện ngắn kể trước, câu chuyện dài kể sau.

+ Lúc đầu kể chậm, vừa kể vừa nhớ cách phát âm, sau kể nhanh dần.

+Kể chuyện một mình và kể cho người khác nghe để kiểm tra phát âm.

+ Kể nhiều lần.

+ Kể trên lớp cho nhau nghe và chỉnh sửa.

e.Luyện phát âm L, N qua các bài hát có từ ngữ chứa phụ âm đầu L, N.

* Mục đích: Luyện phát âm trong hoạt động nói, một hoạt động đòi hỏi nhớ âm- nghĩa đã cao hơn- nhớ tự động và phát âm chuẩn tự động, không có văn tự kích thích.

* Cách luyện

+ Hát một mình và hát cho người khác nghe để kiểm tra phát âm.

+ Hát nhiều lần.

+ Hát trong giờ âm nhạc, hát trong SHTT.

g. Luyện phát âm L, N trong giao tiếp hằng ngày.

* Mục đích: Đây là mục đích cuối cùng luyện phát âm có phụ âm đầu L, N đi vào hoạt động giao tiếp mang tính tự động.

* Cách luyện:

+ Nói, hỏi người giao tiếp với mình bằng những câu có từ ngữ có phụ âm đầu L, N.

+ Trả lời bằng những câu có từ ngữ có phụ âm đầu L,N. Ví dụ:

- Bà Nụ ơi! Ruộng lúa nếp nhà bà có tốt không?

- Cảm ơn bà Na, sào lúa nếp nhà tôi tốt lắm.

- Dạo này nước lại thiếu nên lo lắm.

- Chết, cô xem lại chứ, Lan nó không nói linh tinh như thế đâu!

6. Câu hỏi kiểm tra lẫn L, N.

1. Năm nay lúa nếp Thanh Lâm có tốt không?

2. Cô Lan nâng niu hay nuông chiều học sinh?

3. Lũ lụt năm nay liệu có lớn không?

4. Thầy Nam luôn lo lắng vì sự non nớt của Lâm?

5. Cô giáo Liên Hương ăn mặc luôn nền nã phải không?

6. Gia đình Việt Nam có nền nếp văn hoá và có là nền tảng xã hội không?

7. Lê Lợi có nằm gai nếm mật làm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không?

  1. “ Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cung non” là câu thơ của ai?

9. Em làm lụng, nấu nướng, nội trợ có tốt không?

10. Não nùng là nỗi buồn như thế nào?

 

  1. Phân định L, N bằng nghĩa.

1. a(dt): tên nốt nhạc Na(dt): loại cây ăn quả

2. La(đt): phát ra lời nói to Na mô

3. La bàn(dt): dụng cụ xác định hướng

4. La cà(tt): đi hết chỗ này đến chỗ khác

5. La(dt): con lai lừa- ngựa

6. La de(dt): khuyếch đại ánh sáng bằng bức sạ cảm ứng

7. La đà(tt): xà thấp xuống

8. La liếm(đt): tìm ăn khắp chỗ

9. La liệt(tt): trạng thái giăng bày mọi nơi

 

D. NHỮNG BÀI LUYỆN

  1. Thề non nước

Nước non nặng một lời thề,

Nướcđi, đi mãi không về cùng non.

Nhớ lời nguyện nước thề non,

Nước đi chưa lại non còn đứng không.

Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

Xương mai một nắm hao gầy,

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc nét càng phôi pha.

Non cao tuổi vẫn chưa già,

Non thời nhớ nước, nước mà quên non.

Dù cho sông cạn đá mòn,

Còn non còn nước vẫn còn thề xưa.

Non cao đã biết hay chưa,

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.

Nước non hội ngộ còn luôn,

Bảo cho non chớ có buồn làm chi.

Nước kia dù hãy còn đi,

Ngàn dâu xanh tốtnon thì cứ vui.

Nghìn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước không nguôi lời thề.

( Văn 11, NXBGD- 2003)

2. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe

(Nguyễn Khuyến)

3. Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai.

Tản Đà

Hay là thuở trước bậc tài danh,

Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh .

5. Ừ. Tuy hai đứa không nói ra, song tao biết chúng nó thương mầy lắm; chúng nó tưởng mầy chết rồi; nên mầy thăm mà không ở với chúng nó được thì làm buồn cho chúng nó chớ không ích gì.

Hồ Biểu Chánh

6. Sông làm chi, rồi quan làng họ bắt, dây sinh chuyện ra nữa. Mỗy thiệt là khốn nạn lắm.

Hồ Biểu Chánh

7. Bây giờ cha đượcvui lòng rồi, dẫu lao khổ tấm thân nệ gì.

Hồ Biểu Chánh

8. Ở Xuân Diệu, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa là một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn.

(Văn lớp 11)

9. Của ong bướm này đây tuần trăng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Xuân Diệu

10.Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần nhắm mắt!

Xuân Diệu

11. Chị kê xong chõng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại têm trầu, còn thằng cu thì loay hoay nhóm lửa để nấu nồi nước chè. Lúc bấy giờ chị mới ngẩng đầu lên nói chuyện vói Liên.

Thạch Lam

12. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào:”Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Nguyễn Tuân

13. Sương lửng lơ leo, núi lưng chừng.

 

Cơm còn lưng lửng nồi.

 

Sơn là một thanh niên lực lưỡng.

 

Lê Lương Nam rất nỗ lực rèn luyện.

 

Nồi niêu nhà nó luôn vứt lung tung.

 

Lênh đênh như thuyền không lái.

 

Cái Lan nổi trận lôi đình, nói năng nóng nảy.

 

Chế độ nô lệ là chế độ bóc lột nông nô.

 

Hắn là anh lính nô lệ.

 

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.

(Truyện Kiều- Nguyễn Du)

 

14. Lâu lâu, Nam lại trở về căn phòng lạnh lẽo này.

 

Những năm bị Mĩ ném bom, người Hà Nội lánh nạn về nơi đây.

 

Ngôi nhà khuất nẻo, ở lảnh trong núi.

 

Chú sáo nâu trong lồng kêu lảnh lót.

 

Chúng đưa ra một lô một lốc những lời lẽ lừa bịp.

 

Nói gì, làm gì thì cũng lọt sàng xuống nia.

 

Đoạn đường này, lồi lõm, uốn lượn lung tung nên khó đi.

 

Lỗ chân lông là nơi mồ hôi tiết ra.

 

Người lính len lỏi luồn sâu vào nội thành để nắm binh lực địch.

 

Luồng lạch là dòng nước sâu, tàu thuyền qua lại được.

 

Chiếc thuyền nan lúng liếng trên mặt nước rồi lật úp.

 

Nước luồn qua khe núi dồn lại ở chỗ này.

 

Cành na gẫy cứ lủng lẳng trên nóc chuồng gà.

 

Từ trên núi xuống bọn lính lùng sục khắp nơi.

 

Lan cứ lúng ba lúng búng không nói nên lời.

 

Dạo này, cô nàng đã nói năng nhã nhặn, làm lụng có nền nếp.

 

Nghe Lan nói, lời lẽ thật não nuột.

 

Hội làng Lương Tài thật là náo nức.

 

Cái Nụ ăn nói thật nanh nọc.

 

Tiếng đàn Hoàng Long nghe mà não nuột.

 

Nói nát nước nát cái mà cái Luyến vẫn chưa nghe.

 

Ông nội vừa nạt nộ vừa khuyên bảo nó bằng lời lẽ tình cảm.

 

Nạn cho vay lãi ở làng ta lớn lắm rồi.

 

Những lời nói nặng nề làm Lê Năng chán nản.

 

Màu nâu non là màu nâu nhạt, tươi, nữ giới thường cắt áo màu này.

 

Chị Nõn nén lòng, nghẹn ngào nói trong nước mắt.

 

Người nào người nấy lo lắng làm lễ đón dâu.

 

Thơ Đường luôn nói đến liêm luật.

 

Học sinh lớp 5A(năm A) luôn niềm nở với thầy cô.

 

Lão lí trưởng xưa nay luôn nịnh nọt quan trên.

 

Nó chịu khó làm lụng, thu hoạch được, nên cũng no nê.

 

Nam Linh láu lỉnh lắm, chạm vào nó cái gì là nó biết nói lảng ngay.

 

Lễ hội chùa Láng thật là nô nức, náo nhiệt.

 

Lê Lưu Luyến nói năng lưu loát.

 

Cải lương Nam Bộ hay nói có lối.

 

Cô nương có nước da nõn nà, nói năng lưu loát, hay nũng nịu, làm duyên, làm dáng.

 

Nòng nọc sống dưới nước, lớn lên sống trên cạn.

 

Vì anh nóng nảy nên làm hỏng linh tinh cả.

 

Nấu nướng cần đầy đủ nồi niêu, củi lửa.

 

Cái Linh khóc nứcnở hồi lâu rồi mới nói.

 

Bố nó còn không nói, nữa là ông Luy.

 

Nước lã mà vã nên hồ có nghĩa tay không mà làm nên sự nghiệp.

 

Nói chỉ thêm buồn, nó bây giờ sống cảnh cơm niêu nước lọ ấy mà.

 

Tin thắng lợi làm nức lòng người cả nước.

 

Tống Nam Lam là một nữ lưu tài năng.

 

Nó lật lọng lắm, nói rồi nuốt lời luôn.

 

Luyến có làn da trắng nuột nà, má lại có núm đồng tiền, duyên lắm.

Cái Luân nó lấy một người luống tuổi nhưng tính nết tốt lắm.

 

Lực lượng trong nước đã mạnh mẽ, ai cũng náo nức chờ lệnh khởi nghĩa.

 

Dòng nước lững lờ như một nỗi niềm thương nhớ mông lung.

 

Nặc nô là người đàn bà lắm lời, thô bỉ, nanh nọc, đanh đá.

 

Cứ nấn ná mãi nên công việc lỡ làng.

 

Lúa nếp nương là lúa gieo thẳng, ăn thơm dẻo.

 

Lán Nà Lừa là di tích lịch sử.

 

Đảo cò ở Chi Lăng Nam huyện Thanh Miện tỉnh Hưng Yên là khu du lịch sinh thái thật hấp dẫn.

 

Người Hưng Yên quyết không nói ngọng L-N.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐẤT VÀ NGƯỜI HƯNG YÊN

 

Hưng Yên là mảnh đất có bề dày truyền thống văn hiến và lịch sử. Ngành giáo dục và Đào tạo địa phương nhận thức rất rõ về những việc phải làm để các thế hệ người Hưng Yên hôm nay hiểu biết sâu sắc và tự hào về truyền thống của địa phương. Trong những năm vừa qua, cùng với việc cho ra mắt cuốn Sơ thảo Lịch sử Giáo dục Hưng Yên việc hoàn thiện trưng bày Nhà truyền thống Giáo dục Hưng Yên(Tại Mao Điền- Cẩm Giàng) là những công việc mà Sở Giáo dục và Đào tạo đã làm được theo tinh thần trên. Để tiếp tục đáp ứng yêu cầu về tài liệu tham khảo cho giáo viên trong ngành tìm hiểu về truyền thống của địa phương, tập tài liệu Đất và người Hưng Yên được biên soạn trên cơ sở các nguồn tư liệu đã được các cơ quan xuất bản ở Trung ương và địa phương thẩm định và phát hành.

I-Hưng Yên- tên gọi và địa giới hành chính qua các thời kì:

Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằngchâu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1.661 km2, dân số hơn 1,7 triệu người(theo số liệu thống kê năm 1999). Tỉnh được chia thành 12 đơn vị hành chính huyện, thành phố với 263 xã phường, thị trấn.

Thời kì Bắc thuộc(từ 179 tr. CN đến năm 938), Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ của Giao Châu.

Đến thời kì Lý- Trần, Hưng Yên có tên là Nam Sách lộ rồi Hồng Lộ.

Thời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7(1466) nước ta được chia làm 12 thừa tuyên, Hưng Yên có tên là Thừa tuyên Nam Sách. Đến năm Quang Thuận thứ 10(1490) thừa tuyên đổi thành xứ, Hưng Yên được gọi là xứ Đông(chỉ vùng đất phía đông kinh thành Thăng Long). Từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX các xứ được đổi thành trấn, trấn Hưng Yên là một trong tứ trấn giáp Thăng Long.

Đến thời Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 12(năm 1831), do cải cách hành chính, các trấn đổi thành tỉnh, trấn Hưng Yên đổi thành tỉnh Hưng Yên- hay còn gọi là tỉnh Đông (phía đông Hà Nội). Hưng Yên lúc này có bốn phủ và 18 huyện. Năm Minh Mạng thứ 19(1838) cắt 3 tổng của Vĩnh Lại và 5 tổng của Tứ Kì ra thành lập huyện mới lấy tên là Vĩnh Bảo. Hưng Yên từ đó có 19 huyện .

Từ năm 1887 đến năm 1898, chính quyền thực dân và Nam triều điều chỉnh lại địa giới hành chính: cắt 4 xã thuộc huyện Thuỷ Nguyên để lập cảng Hải Phòng...

Như vậy, qua 74 năm, tỉnh Hưng Yên bị cắt đi 9 huyện, còn lại 11 huyện và 1 thị xã; trong đó, có 7 huyện có địa danh tiếp giáp với các tỉnh đều bị cắt đi từ 1 đến 4 xã. Về diện tích, Hưng Yên chỉ còn lại ẵ diện tích so với thời điểm năm 1888.

Tháng 1 năm 1968, hai tỉnh Hưng Yên và Hưng Yên sáp nhập thành tỉnh mới lấy tên là Hải Hưng. Đến tháng 1 năm 1997, hai tỉnh tách ra và tái lập, tỉnh Hưng Yên trở về với tên gọi cũ và có địa giới hành chính như hiện nay.

II-Khái quát về địa hình, cảnh quan tự nhiên Hưng Yên.

Hưng Yên có các dạng địa hình khá phong phú: Dạng địa hình bóc mòn xâm thực; dạng địa hình kaste; dạng địa hình tích tụ... từ đó tạo ra sự đa dạng cảnh quan tự nhiên.

Cảnh quan tự nhiên của Hưng Yên bao gồm: Cảnh quan đồi rừng, cảnh quan gò đồi, cảnh quan đồi núi đá vôi và cảnh quan đồng bằng.

Khu vực cảnh quan đồi rừng bao gồm vùng đất thuộc địa bàn hai huyện Chí Linh và Kinh Môn hiện nay.

Khu vực cảnh quan gò đồi gồm các xã Hoàng Tân, Thái Học và một phần các xã: Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Cộng Hoà(Chí Linh); địa phận thuộc một số xã của huyện Kinh Môn như: Lê Ninh, Phúc Thành, Hiệp Hoà, Thượng Quận, An Phụ, Hiệp An, Hiệp Sơn, An Sinh, Thái Sơn, Bạch Đằng, Hoành Sơn, Tân Dân... có độ cao trung bình từ 40 đến 45 m, độ dốc trung bình từ 10 đến 15 độ.

Khu vực cảnh quan đồi núi đá vôi được trải dài từ các xã Duy Tân, Minh Tân, Phứ Thứ, Tân Dân, Phạm Mệnh và khu vực núi An Phụ(huyện Kinh Môn). Độ cao trung bình của dãy núi đá từ100 đến 150 m, có độ dốc lớn, nhiều nơi tạo thành vách đứng, đỉnh lởm chởm, thành vách có nhiều khe sâu, hang động. Tiêu biểu có các hang động: Kính Chủ, Đốc Tít, Hang Ma. Cảnh quan đồi núi đá vôi không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế(là vùng cung cấp nguyên liệu phong phú cho công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng) mà còn là nơi có ý nghĩa lịch sử, văn hoá với các di tích đã được nhà nước xếp hạng quốc gia như: Động Kính Chủ, đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, chùa Tường Vân. Điển hình cảnh quan khu vực này phải kể đến xã Minh Tân và khu vực núi An Phụ. Thực vật và động vật cũng mang nét đặc trưng của vùng Đông Bắc. Riêng chùa Nhẫm Dương hiện còn một số cây có tuổi đời hàng trăm năm. Theo điều tra của hội sinh học môi trường tỉnh Hưng Yên năm 1998 thì trong các loài bò sát, ở đây còn có ba loài trong sách đỏ Việt Nam: Trăn đất, tắc kè, kỳ đà vân.

Về cảnh quan sông, suối, đầm hồ:

Khu vực phía Bắc và Đông Bắc của tỉnh Hưng Yên không chỉ có núi cao, gò đồi mà còn nhiều sông, hồ, tạo nên vẻ đa dạng sinh thái cho cả vùng. Huyện Chí Linh được bao bọc ba hướng đông, tây, nam đều có sông: sông Thương, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, sông Đông Mai. Phía tây bắc là hợp lưu của 6 con sông(lục đầu giang): sông Đuống, sông Cỗu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Thái Bình và sông Lục Đầu. Huyện Kinh Môn được bao bọc bởi bốn con sông lớn: sông Kinh Môn, sông Kinh Thầy, sông Đá Vách và sông Hàn Mấu. Các sông trong khu vực đều có đặc điểm chung: chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, lòng rộng, độ dốc nhỏ, lượng phù sa nhỏ so với sông Thái Bình. Ngoài hệ thống sông bao bọc, nét đặc trưng địa hình vùng núi Chí Linh còn có nhiều đầm hồ. Các đầm hồ không những chứa nước tưới tiêu, cung cấp nước sinh hoạt, góp phần cải thiện môi trường sinh thái mà còn góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên- văn hoá nơi đây, tạo tiềm năng phát triển du lịch của vùng.

Ngoài cảnh quan theo khu vực tiểu vùng thì ở Hưng Yên, một phần lớn(89%) diện tích đất tự nhiên thuộc cảnh quan đồng bằng. Đồng bằng ở Hưng Yên được bồi đắp bởi phù sa sông Thái Bình và một phần phù sa sông Hồng. Thổ nhưỡng ở đây tương đối màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp- đặc biệt là trồng lúa nước.

Các dạng cảnh quan đồng bằng ở Hưng Yên bao gồm: cảnh quan trồng lúa, rau màu và cảnh quan trồng cây ăn quả.

Lúa nước là cây lương thực chủ yếu của đồng bằngViệt Nam nói chung và Hưng Yên nói riêng.

Dạng cảnh quan trồng cây ăn quả tiêu biểu là địa bàn huyện Thanh Hà với cây đặc sản vải thiều với ba giống chính: vải chua; vải nhỡ; vải thiều.

Cùng với sự đa dạng về địa hình, cảnh quan, Hưng Yên có hệ thống sông ngòi dày đặc. Hệ thống sông hợp lưu tại phía Lục đầu giang- Phả Lại, huyện Chí Linh, bao gồm: sông Thương bắt đầu từ Bắc Giang, sông Đuống bắt nguồn từ Thái Nguyên, sông Cỗu bắt nguồn từ Phú Thọ. Sau hợp lưu, tạo thành sông Thái Bình và sông Kinh Thầy.

III- Hưng Yên trong tiến trình lịch sử:

1-Hưng Yên thời tiền sử: Những di chỉ thời đại đồ đá ở phía Bắc Việt Nam, từ sơ kì(núi Đọ), trung kì, hậu kì đá cũ(Sơn Vi) đến thời đại đồ đá giữa(Hoà Bình), thời đại đồ đá mới(Bắc Sơn, Hạ Long) đều cách Hưng Yên không xa, thì dù chưa tìm thấy di tích khảo cổ để chứng minh thì chúng ta cũng có thể kết luận địa bàn Hưng Yên cũng trong vùng văn hoá này- nhất là văn hoá Hạ Long.

Những di chỉ khảo cổ mới được phát hiện gần đây ở động Thánh Hoá, Nhẫm Dương đã chứng minh cho nhận định trên là đúng. Đến thời đại đồ đồng, con người đã đến cư trú ở vùng đất Hưng Yên trải dài trên diện rộng, để lại nhiều di chỉ khảo cổ còn đến ngày nay. Tại di chỉ Đồi Thông(thuộc xã Lê Ninh- Kinh Môn, nằm ở chân đồi, có độ cao 4m so với mặt ruộng, tầng văn hoá dầy khoảng 1m) người ta đã tìm thấy nhiều hiện vật được làm từ chất liệu đồng, gồm các loại vũ khí, đò dùng sinh hoạt như: mũi tên, rìu, giáo, ... có niên đại khoảng 1000 năm tr. CN. Tại thôn Hàm Ếch, xã Cộng Hoà(Chí Linh), đã phát hiện ra hai chiếc mai đá, nhưng là sản phẩm của thời kì đồ đồng: chiếc thứ nhất dài 29cm, rộng 15cm; chiếc thứ hai dài 34cm, rộng 20cm.

Thời đại văn hoá Đông Sơn để lại nhiều dấu tích ở vùng đồng bằng của Hưng Yên. Đặc trưngcủa nó được chia làm 5 loại hình: di chỉ cư trú, mộ táng, cư trú – mộ táng, di chỉ xưởng và những di vật phát hiện lẻ tẻ. Hiện vật tiêu biểu gồm: công cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức, đồ gốm, mộ táng và kĩ nghệ đúc đồng. Như trên đã nói, dấu vết văn hoá Đông Sơn được thể hiện rõ qua các di chỉ ở khu vực núi Nhẫm Dương(Kinh Môn), ngoài ra đã được phát hiện ở nhiều nơi từ miền núi đến đồng bằng của Hưng Yên.

Qua các di chỉ khảo cổ có thể chứng minh rằng: vùng Hưng Yên là một trong những cái nôi của loài người; đến thời đại đồ đồng, nền văn hoá của cư dân nơi đây đã phát triển rực rỡ.

2-Hưng Yên qua các triều đại phong kiến:

A- Truyền thống đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đấu tranh cho tự do dân chủ: Có nhiều nhân vật tiêu biểu như : Khúc Thừa Dụ, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, YếtKiêu...

1-Khúc Thừa Dụ(chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Cúc Bồ(nay thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang) là hào trưởng đất Hồng Châu. Sử cũ viết: ông có tính khoan hoà, hay thương người, được đông đảo nhân dân khâm phục. Đến thời Khúc Thừa Dụ, nước ta đã trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Vào đầu thế kỉ thứ X, nhà Đường suy yếu trầm trọng. Giữa năm 905, Độc Cô Tổn giữ chức Tiết độ sứ ở nước ta lúc đó âm mưu cát cứ, nên bị vua Đường giáng chức, sau đó bị đày ra đảo Hải Nam rồi bị giết ở đó. Nhân cơ hội này, được nhân dân ủng hộ, Khúc Thừa Dụ đã kêu gọi các đầu mục trong vùng nổi dậy, đánh chiếm phủ Tống Bình(Hà Nội), đuổi giặc về nước, rồi tự xưng là tiết độ sứ. Trước thế đã rồi, ngày 7 tháng 2 năm 906, nhà Đường buộc phải phong cho ông chức Tiết độ sứ An nam đô hộ.Từ đó, họ Khúc thi hành chính sách ngoại giao rất kiên quyết mà mềm dẻo. Tuy mang danh chức quan nhà Đường, song thực chất Khúc Thừa Dụ đã từng bước xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc một cách cơ bản ách thống trị hàng nghìn năm của phong kiến phương Bắc trên đất nước ta. Được hai năm thì ông qua đời.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết