A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Một số phương pháp dạy học tích cực

BÁO CÁO

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀ

MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC Ở TIỂU HỌC

 

NGƯỜI BÁO CÁO: BÙI VĂN CHƯ

ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG TIỂU HỌC BẮC SƠN

ÂN THI – HƯNG YÊN

  1. Phương pháp dạy học tích cực:

Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

 

2. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường Tiểu học

a). Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.

Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.

Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau

* Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức

- Tạo tình huống có vấn đề;

- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;

- Phát hiện vấn đề cần giải quyết

* Giải quyết vấn đề đặt ra

- Đề xuất cách giải quyết;

- Lập kế hoạch giải quyết;

- Thực hiện kế hoạch giải quyết.

* Kết luận:

- Thảo luận kết quả và đánh giá;

- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;

- Phát biểu kết luận;

- Đề xuất vấn đề mới.

* Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:

Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.

Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. . Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.

b) Phương pháp hoạt động nhóm:

Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.

Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.

* Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành:

·Làm việc chung cả lớp:

- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.

- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ.

- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm.

·Làm việc theo nhóm:

- Phân công trong nhóm.

- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm.

- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm.

·Tổng kết trước lớp:

- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả

- Thảo luận chung

- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.

Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.

Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia.

c. Phương pháp vấn đáp

* Vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:

* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.

* Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe - nhìn.

* Môn Tiếng Việt:

- Giáo viên cần đọc mẫu tốt:

a) Đọc mẫu toàn bài:

Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô.

b) Đọc mẫu câu, đoạn:

Nhằm hướng dẫn, gợi ý, tạo tình huống để học sinh nhận xét tự tìm ra cách đọc.

Ví dụ: Khi đọc bài: Ông Mạnh thắng Thần Gió TLHT 2A/ 19 giáo viên đọc đoạn 2 cho học sinh so sánh với cách đọc đoạn 1 yêu cầu học sinh nói đoạn 1: Đọc với giọng kể, chậm rãi.

Đoạn 2: Nhịp nhanh hơn, nhấn mạnh những từ tả sự ngạo nghễ của thần gió, sự tức giận của ông Mạnh như: “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quật, ngạo nghễ”.

c) Đọc từ, cụm từ : Nhằm giúp học sinh sửa sai do phát âm, rèn cách đọc, nâng cao ý thức viết đúng cho học sinh.

- Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ:

a) Cho học sinh đọc từ chú giải.

- Cho học sinh đọc từ chú giải trong TLHT là cần thiết. Giáo viên cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc phần chú giải. Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần.

* Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định.

d. Phương pháp đóng vai:

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.

Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:

- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.

- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.

- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.

- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực.

- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.

Cách tiến hành có thể như sau:

- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.

- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.

- Các nhóm lên đóng vai.

- Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.

- Vì sao em lại ứng xử như vậy?

- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử?

- Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?

- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.

Những điều cần lưu ý khi sử dụng:

- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai

- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai

- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.

e. Phương pháp động não

Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.

Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.

Cách tiến hành v

- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.

  • Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.

- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.

- Phân loại ý kiến.

- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.

* Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của môn TNXH lớp 2:


1. Môn TNXH cung cấp một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về cơ
thể người. Học sinh biết cách giữ gìn vệ sinh cơ thể và phòng tránh một số bệnh
tật thông thường; biết một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội xung quanh. Đồng thời môn Tự nhiên và xã hội bước đầu hình thành và phát
triển ở hoc sinh những kĩ năng như: tự chăm sóc sức khoẻ bản thân, biết ứng xử và đưa ra nhưng quyết định hợp lý trong đời sống để phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. Môn Tự nhiên và xã hội giúp học sinh biết quan sát, nhận xét, nêu
thắc mắc, đặt câu hỏi, diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vạt, hiện tương đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Không những thế, môn Tự nhiên và xã hội còn giúp học sinh hình thành và phát triển thái độ và hành vi như: Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Biết yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu nhà trường, yêu quê hương đất nước.

Đối với học sinh lớp 2, sau khi học xong môn Tự nhiên và xã hội, học sinh biết sơ lược về hoạt động cơ quan vận động và cơ quan tiêu hoá ở cơ thể người, phòng chống cong vẹo cột sống; giữ vệ sinh ăn uống, cách phòng nhiễm giun. Ngoài ra học sinh lớp 2 còn biết về công việc của các thành viên trong gia đình, nhà trường và một số nghề nghiệp trong xã hội, ở địa phương; biết giữ sạch nhà , trường học, giữ an toàn khi ở nhà, ở trường và khi đi đường. Học sinh biết cây cối và các con vật có thể sống được ở khắp nơi: trên cạn, dưới nước, trên không; biết quan sát bầu trời ban ngày, ban đêm; có hiểu biết sơ lược về hình dạng và đặc điểm của Mặt trời, Mặt Trăng và các vì sao.


.2. Đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học hiện nay:
Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, việc học tập của học sinh
phải dựa trên các hoạt động học tập tích cực, chủ dộng và sáng tạo, hướng tới sự phát triển năng lực cá nhân thay cho việc học "áp đặt" nhưng kiến thức sẵn có bằng cách dạy học tự học, tự khám phá để chiếm lĩnh kiến thức. kết hợp với sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học.

Ví dụ: Dạy bài “Vì sao chúng ta vận động được” – Bài 1- Tài liệu học tập TNXH lớp 2 trang 1


Giáo viên dẫn dắt học sinh từ cái cụ thể, nhưng kinh nghiệm vốn có của học
sinh: tự co tay, duỗi tay, tự co chân, duỗi chân, tự véo vào mông, vào bụng…để
thấy được cơ bám vào xương và nhờ có cơ mà ta có thể thực hiện được mọi cử
động như chạy, nhảy, đi đứng, viết, xoay người, cười, nói, ăn, uống…
3. Phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 2:


Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2 tuy đã được làm quen
và củng cố thêm hiểu biết từ lớp 1 song trình độ nhận thức về TNXH còn nhiều
hạn chế. Các em nhận thức thế giới dưới dạng tổng thể, khả năng phân tích chưa cao.Tư duy cụ thể còn chiếm ưu thế. VÌ vậy hoc sinh lớp 2 nhận thức thế giới xung quanh thường dựa vào những đối tượng thực hoặc những thay thế. Do đó, nhưng kết luận mà học sinh rút ra chủ yếu dựa vào kình nghiệm sống và những quan sát trực tiếp mà ít dựa trên luận chứng logic. Việc dạy học sinh lớp 2 đòi hỏi phải nắm chắc đặc điểm tâm lí này và lựa chọn, bổ sung những phương pháp dạy học sinh tích cự nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học nói chung, môn TNXH nói riêng trong các nhà trường.

* Môn đạo đức:

- Còn Đàm thoại là phương pháp tổ chức trò chuyện giữa thầy - trò hoặc trò - trò về một chủ đề đạo đức trên một hệ thống câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh đi đến chuẩn mực đạo đức các em cần nắm và thực hiện. Phương pháp đàm thoại giúp học sinh phát huy vốn kinh nghiệm đạo đức đã có; chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của thầy, của bạn, tiếp thu bài học một cách tích cực, chủ động; tránh được xu hướng thuyết lý khô khan, áp đặt, nặng nề. Cùng với phương pháp kể chuyện đàm thoại, phương pháp thảo luận phân tích tình huống nhằm giúp học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình học tập tạo điều kiện cho các em có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến, hay để giải quyết một vấn đề đạo đức nào đó. Ví dụ: Ở bài 11: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" - Tiết 1. + Hoạt động 1: Giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại + Hoạt động 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Ở bài 2 "Biết nhận lỗi và sửa lỗi" - Tiết 1. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyêụn, thảo luận nhóm. Nhóm phương pháp luyện tập, rèn luyện hành vi thói quen và cách ứng xử. Bao gồm: Tập luyện thực hành; ứng xử tình huống; động não; Tổ chức trò chơi; Đóng vai. Luyện tập thực hành là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập theo mẫu hành vi đã xác định ở tiết 1. Đồng thời để củng cố lại kiến thức đã học. Các em thực hành luyện tập làm các bài tập giải quyết tình huống trong vở bài tập đạo đức. Cùng với phương pháp luyện tập thực hành là phương pháp đóng vai. Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử và bày tỏ thái độ trong tình huống cụ thể. Đóng vai gây chú ý và hứng thú cho các em. Qua đó tạo điều kiện nảy sinh óc sáng tạo của học sinh đồng thời khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức. Qua đóng vai có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Còn phương pháp Tổ chức trò chơi là phương pháp giúp học sinh phát hiện và chiếm lĩnh những nội dung học tập thông qua việc chơi một trò chơi nào đó. Qua trò chơi các em không những được phát triển về các

 

mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất hành vi đạo đức. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong tiết đạo đức như là một phương pháp dạy học quan trọng để giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh. Nội dung trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động cho các mẫu hành vi đạo đức. Nhờ vậy, những mẫu hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở học sinh, giúp các em ghi rõ ràng và lâu bền. Qua trò chơi, học sinh được tập luyện những kỹ năng, những thao tác hành vi đạo đức, được thể hiện nãy sẽ hình thành được ở học sinh niềm tin về những chuẩn mực hành vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. - Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng biết lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. - Bằng trò chơi, việc luyện tập thực hành về các hành vi đạo đức được tiến hành một cách nhẹ nhàng sinh động, không gây khô khan nhàn chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm đồng thời giải toả được mệt mỏi căng thẳng. Cùng với phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp đóng vai, tổ chức trò chơi, thì Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nẩy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Ví dụ: Ở bài 11: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại: - Tiết 1. + Hoạt động 1: Giáo viên sử dụng phương pháp đóng vai, động não. + Hoạt động 2: Sử dụng phương pháp tập luyện thực hành. Tóm lại: Trong các phương pháp trên, không có phương pháp nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng biệt, song nó sẽ không có hiệu quả khi người dạy không biết sử dụng đúng lúc, đúng mục đích trong một tiết dạy. Hơn nữa tuỳ thuộc vào tiết 1 hay tiết 2 của một bài đạo đức mà người giáo viên sử dụng phương pháp cho phù hợp. Tiết học có đạt được kết quả cao hay không nhờ khả năng kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học với nhau, lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia.

Ví dụ: Thông qua các tổ chức Đoàn Đội, các buổi sinh hoạt đội, sinh hoạt sao nhi đồng, thông qua phong trào "Đọc và làm theo báo Đội" Thông qua các buổi chào cờ dạy cho các em những tấm gương tốt ở trường, ở lớp, đồng thời cũng phê bình những em chưa thật sự cố gắng. Từ đó kích thích tinh thần phấn đấu vươn lên trong học tập, lao động, rèn luyện đạo đức của các em. Hay gần đây nhất là phong trào: "Thắp sáng ước mơ", giáo dục cho các emtinh thần tương thân tương ái, ý thực tiết kiệm để làm những việc có ích. Ngoài ra các cuộc thi như: "Hội khoẻ Phù Đổng chào mừng ngày 22/12”, Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Giáo dục cho học sinh tinh thần: "Uống nước nhớ nguồn", "Tôn sư trọng đạo".

- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở TIểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ dộng và sáng tạo của học sinh. Tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với hoc sinh tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện vận dụng kiến thức và thực tiễn đời sống.


- Góp phần gây hứng thú học tập cho các em để các em có thể học tập tốt
được các môn học khác.

3. Một số kĩ thuật dạy học ở Tiểu học

a. Kĩ thuật chia nhóm

Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia nhóm:

* Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm,…:

- GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...)

- Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.

* Chia nhóm theo hình ghép

- GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số HS muốn có là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số nhóm mà GV muốn có.

- HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.

- HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình hoàn chỉnh.

- Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm.

* Chia nhóm theo sở thích

GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,...

* Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm.

Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính,....

b. Kĩ thuật giao nhiệm vụ

- Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:

+ Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?

+ Nhiệm vụ là gì?

+ Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?

+ Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?

+ Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?

+ Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?

+ Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?

- Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian, không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị

c. Kĩ thuật đặt câu hỏi

Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.

Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS - GV và HS - HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn.

Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để:

- Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham gia vào quá trình dạy học

- Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với ND học tập

- Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức

Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học

- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu

- Đúng lúc, đúng chỗ

- Phù hợp với trình độ HS

- Kích thích suy nghĩ của HS

- Phù hợp với thời gian thực tế

- Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính

- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc

d. Kĩ thuật khăn trải bàn

- HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.

- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm ( 4 hoặc 6 người.)

- Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình ( về một vấn đề nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn”

e. Kĩ thuật phòng tranh

Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.

- GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.

- Mỗi thành viên ( hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.

- HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.

- Cuối cùng, tất cả các ph­ương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ­ưu.

f. Kĩ thuật công đoạn

- HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…

- Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển cho nhóm 1

- Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý.

- Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm . Sau khi hoàn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.

g. Kĩ thuật các mảnh ghép

- HS được phân thành các nhóm, sau đó GV phân công cho mỗi nhóm thảo luận, tìm hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn: nhóm 1- thảo luận vấn đề A, nhóm 2- thảo luận vấn đề B, nhóm 3- thảo luận vấn đề C, nhóm 4- thảo luận thảo luận vấn đề D,….

- HS thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công

- Sau đó, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới, như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về vấn đề A, B, C, D,...và mỗi “ chuyên gia” về từng vấn đề sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn đề mà em đã có cơ hội tìm hiểu sâu ở nhóm cũ.

h. Kĩ thuật động não

Động não là kĩ thuật giúp cho HS trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng ( nhằm tạo ra cơn lốc các ý tưởng).

Động não thường được:

- Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề

- Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề

- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau

Động não có thể tiến hành theo các bước sau :

- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề ( có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.

- Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.

- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.

- Phân loại các ý kiến.

- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng

- Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận.

i. Kĩ thuật “ Trình bày một phút”

Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.

Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:

- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?...

- HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.

- Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.

k. Kĩ thuật “Chúng em biết 3”

- GV nêu chủ đề cần thảo luận.

- Chia HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10 phút về những gì mà các em biết về chủ đề này.

- HS thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả lớp.

- Mỗi nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên.

l. Kĩ thuật “ Hỏi và trả lời”

Đây là KTDH giúp cho HS có thể củng cố, khắc sâu các kiến thức đã học thông qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi.

Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:

- GV nêu chủ đề .

- GV (hoặc 1 HS) sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu một HS khác

trả lời câu hỏi đó.

- HS vừa trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt tiếp một câu hỏi nữa và yêu cầu một HS khác trả lời.

- HS này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng lớp,... Cứ như vậy cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này lại.

n. Kĩ thuật “Lược đồ Tư duy”

Lược đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề.

- Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm.

- Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên.

- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó.

- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.

Trên đây là báo cáo một số phương pháp và một số kĩ thuật dạy học ở trường tiểu học.

Bắc Sơn, ngày 9 tháng 7 năm 2016

Người báo cáo


 

 

 

Bùi Văn Chư


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết